Dựa trên cơ sở dữ liệu chăm sóc ban đầu của Anh, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu trên hơn 140.000 người trưởng thành bắt đầu với thuốc điều trị đái tháo đường không phải insulin từ 1/2007 đến 12/2016, và theo dõi đến tận 6/2017.
Trong quá trình theo dõi trung bình 3,6 năm:
- 53/100.000 người mắc IBD nếu sử dụng thuốc ức chế DPP-4 mỗi năm so với 35/100.000 người ở những bệnh nhân sử dụng các loại thuốc điều trị đái tháo đường khác (HR 1,75; 95% CI 1,22-2,49).
- gia tăng chỉ số rủi ro khi kéo dài thời gian sử dụng thuốc ức chế DPP-4; cao nhất sau 3-4 năm (HR 2,90) và giảm sau năm thứ 4 (HR 1,45)
- không ghi nhận được mối liên quan có ý nghĩa thống kê khi phân tích theo từng thuốc cụ thể (sitagliptin, saxagliptin,...), chỉ ghi nhận được mối liên quan có ý nghĩa khi phân tích theo tỷ lệ mắc mới đối với viêm loét đại tràng (HR 2,23; 95% CI 1,32-3,76)
Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, NNH (số bệnh nhân cần điều trị để phát hiện một ca IBD xảy ra) là 2.291 bệnh nhân theo dõi trong vòng 2 năm hoặc 1.177 bệnh nhân theo dõi trong vòng 4 năm.
Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng các bác sĩ lâm sàng "có lẽ không nên kê toa thuốc ức chế DPP-4 cho những người có nguy cơ cao" - ví dụ trường hợp bệnh nhân mắc bệnh tự miễn.
Tài liệu tham khảo
Devin Abrahami, et al. Dipeptidyl peptidase-4 inhibitors and incidence of inflammatory bowel disease among patients with type 2 diabetes: population based cohort study. BMJ2018;360:k872